Chị em dễ đánh mất hạnh phúc vì một vấn đề nhạy cảm mà nhiều người ngại thổ lộ.
Tiểu són, tiểu buốt, tiểu khó và đau vùng chậu kéo dài là những nguyên nhân chính gây giảm ham muốn tình dục, đau khi giao hợp và giảm khoái cảm ở phụ nữ. Thông tin này được PGS.TS.BS Nguyễn Văn Ân, Trưởng khoa Niệu A, Bệnh viện Bình Dân, chia sẻ trong buổi trò chuyện về rối loạn niệu dục. Các rối loạn này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và hạnh phúc hôn nhân của nhiều phụ nữ, khiến họ cảm thấy tự ti và né tránh gần gũi với bạn đời. Thống kê cho thấy khoảng 40-45% phụ nữ gặp các vấn đề rối loạn tình dục, với xu hướng trẻ hóa nhưng chưa được quan tâm đúng mức.
Các bệnh lý rối loạn tiết niệu – sinh dục thường gặp ở phụ nữ bao gồm viêm bàng quang cấp, viêm sinh dục, bàng quang tăng hoạt, tiểu không kiểm soát, tiểu đêm, và sa sinh dục, theo ThS.BS Phạm Hữu Đoàn, BV Bình Dân. Viêm bàng quang là một trong những vấn đề phổ biến, ảnh hưởng đến hàng triệu phụ nữ; một nghiên cứu cho thấy hơn 1 triệu nữ giới mắc viêm bàng quang kẽ, với 37% bị ít nhất một lần trong đời. Triệu chứng bao gồm tiểu nhiều lần, tiểu không kiểm soát, đau vùng xương chậu, mệt mỏi kéo dài, và rối loạn miễn dịch. Nguyên nhân chính là do cấu tạo đường tiểu của phụ nữ, làm cho mầm bệnh dễ dàng di chuyển từ vùng hậu môn đến bàng quang.
Viêm bàng quang có thể do thuốc tránh thai làm thay đổi hệ vi khuẩn và cản trở bài tiết, cùng với vệ sinh vùng kín không đúng cách. Hẹp lỗ tiểu có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn từ niệu đạo xâm nhập vào bàng quang, và tình trạng này có thể nặng hơn sau khi quan hệ tình dục. Để giảm nguy cơ viêm bàng quang, phụ nữ nên uống 1,5-2 lít nước mỗi ngày, đi tiểu ngay sau khi quan hệ để loại bỏ vi khuẩn, và duy trì vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt trong thời kỳ kinh nguyệt. Ngoài ra, cần tránh mặc quần áo ẩm ướt, chật và bí.
Bệnh viêm bàng quang có thể điều trị bằng thuốc, tập luyện với máy hỗ trợ và phẫu thuật. Nhiều phụ nữ âm thầm chịu đựng do nghĩ rằng tình trạng sa sinh dục do sinh đẻ nhiều là bình thường. Theo thống kê, 41% phụ nữ trên 60 tuổi mắc bệnh này, trong đó có 10 phụ nữ Việt bị sa sinh dục sau sinh. Nhiều người không biết rằng bệnh có thể chữa khỏi và nghĩ rằng đó là do tuổi tác. Ví dụ, bà Lìu Xí M., 91 tuổi, nhập viện vì bí tiểu và sốt cao, đã bị sa bàng quang và tử cung hơn 10 năm, khiến bà không thể đi lại và gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt. Bà đã được các bác sĩ can thiệp để giải quyết tình trạng này.
Gần đây, bà gặp khó khăn trong việc tiểu tiện do khối sa diễn tiến nặng và đã đến Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM với tình trạng nhiễm khuẩn niệu nặng. Sau khi điều trị nhiễm trùng, bà được phẫu thuật nội soi khâu treo khối sa sinh dục. Ngay sau phẫu thuật, khối sa đã trở về vị trí ban đầu, và bà không còn cảm thấy khó chịu. Một ngày sau phẫu thuật, bà đã có thể đi lại thoải mái sau 10 năm bị giới hạn. Sa sinh dục có thể điều trị, thường do hệ thống cơ và dây chằng vùng đáy chậu lão hóa và không giữ được các cơ quan vùng chậu. Giai đoạn đầu, người bệnh có thể thấy khối phồng ở vùng âm hộ, nhưng khi nặng hơn, khối sa thường trực không thể đẩy vào trong âm đạo.
Theo các bác sĩ, ở giai đoạn sớm của bệnh sa sinh dục, phương pháp điều trị chủ yếu là vật lý trị liệu. Ở giai đoạn muộn, phẫu thuật là lựa chọn lý tưởng để củng cố hệ thống dây chằng vùng chậu. Phụ nữ nên hạn chế các yếu tố nguy cơ để phòng ngừa bệnh sa sinh dục.





Source: https://afamily.vn/chi-em-co-nguy-co-tan-vo-hanh-phuc-vi-mot-dieu-te-nhi-nhung-nhieu-nguoi-lai-can-rang-khong-dam-noi-voi-ai-20180722164501324.chn